Phân tích Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi – Ngữ Văn lớp 10

Văn họcPhân tích Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi – Ngữ Văn...

Ngày đăng:

0
(0)

Nguyễn Trãi là một trong những thiên tài lỗi lạc của dân tộc. Khi phân tích Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, chúng ta sẽ thấy được cốt cách và tài năng của ông. Cùng DINHNGHIA.COM.VN soạn bài, cảm nhận, và phân tích Bình ngô đại cáo lớp 10 qua bài viết dưới đây.

MB: Một trong những nhà văn chính trị lỗi lạc của thời kỳ văn học trung đại không thể không kể đến Nguyễn Trãi. Ông không những là một nhà thơ nhà văn trữ tình mà còn là một nhà chính luận kiệt xuất với tác phẩm nổi tiếng “Quân trung từ mệnh tập”. Khi phân tích Bình ngô đại cáo trong tác phẩm, người đọc thấy được lòng yêu nước thương dân sâu sắc của tác giả.

Giới thiệu Nguyễn Trãi và tác phẩm Bình ngô đại cáo

Trước khi tìm hiểu và phân tích Bình ngô đại cáo, chúng ta cần nắm được những nét chính về tác giả cũng như đôi nét về tác phẩm.

Đôi nét về tác giả Nguyễn Trãi

  • Nguyễn Trãi (1380 – 1442), ông lấy hiệu là Ức Trai, quê ở làng Chị Ngại sau dời về Nhị Khê.
  • Sinh thời, Nguyễn Trãi được biết đến như một nhà nho yêu nước lỗi lạc đồng thời cũng là một vị quân sư góp phần không nhỏ làm nên chiến thắng vang dội của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
  • Nhắc đến Nguyễn Trãi là nhắc đến một danh nhân văn hóa thế giới, bởi ông đã để lại cho đời cả một kho tàng đồ sộ, đặc biệt là tác phẩm “Đại cáo bình ngô” – Tác phẩm được ví như một áng thiên cổ hùng văn, bản tuyên ngôn độc lập khẳng định chủ quyền dân tộc, mở ra một triều đại huy hoàng trong lịch sử của dân tộc.

Đôi nét về tác phẩm Bình ngô đại cáo

  • Tác phẩm Bình ngô đại cáo được Nguyễn Trãi sáng tác vào cuối năm 1427 đầu năm 1428 nhằm tổng kết cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược. Qua đó cũng tuyên bố kết thúc 20 năm đô hộ của giặc Minh và 10 năm diệt thù của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi. Đây cũng chính là thời điểm mở ra một kỷ nguyên mới về độc lập, tư do và hòa bình.
  • Khi phân tích Bình ngô đại cáo, chúng ta thấy rằng đây được xem là áng văn yêu nước hùng tráng, kết tinh của biết bao nhiêu trái tim yêu chuộng hòa bình của dân tộc, mà chính tác giả Nguyễn Trãi là người đã thổi hồn vào đó qua từng con chữ, câu văn. Mạch cảm xúc của tác phẩm không vì thế mà khô khan, cứng nhắc như vốn có, ngược lại đầy cháy bỏng, tha thiết… để mỗi chúng ta được ôn lại truyền thống oai hùng của lịch sử đất nước.

Tìm hiểu về cáo là gì?

Cáo được biết đến là một thể văn nghị luận có từ thời cổ đại Trung Quốc. Thời bấy giờ thì đây là thể loại quen thuộc, bên cạnh các thể loại chiếu, biểu hay hịch….thường được cung đình sử dụng để ban những sắc lệnh quan trọng. Khi phân tích Bình ngô đại cáo, chúng ta không thể không nhắc đến thể loại của tác phẩm.

Tuy vậy, Đại cáo bình ngô đã vượt xa những ý nghĩa thông thường đó. Bởi chính tác giả đã đưa khát vọng, sự kiêu hùng cùng niềm tự hào tự tôn dân tộc lên một tầm cao mới.

Bố cục Bình Ngô Đại cáo

Nắm được bố cục rõ ràng về tác phẩm cũng góp phần quan trọng trong việc hiểu, nắm bắt, cảm nhận cũng như phân tích Bình ngô đại cáo. Tác phẩm này được chia thành 5 đoạn với nội dung ý nghĩa cụ thể như sau:

  • Đoạn 1: Từ đầu đến “chứng cớ còn ghi”: Tác giả khẳng định tư tưởng nhân nghĩa và chân lý về chủ quyền dân tộc.
  • Đoạn 2: Tiếp theo “Vừa rồi…” đến “Ai bảo thần nhân chịu được”: Nguyễn Trãi đã tố cáo và kết tội những tội ác của giặc Minh.
  • Đoạn 3: Từ “ta đây…” đến “dùng mai phục, lấy ít địch nhiều”: Hình ảnh về Lê Lợi – vị lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn cùng những khó khăn trong buổi đầu.
  • Đoạn 4: Từ “Trọn hay…” đến “cũng là chưa thấy xưa nay”: Quá trình về 10 năm kháng chiến chống quân Minh và thắng lợi vẻ vang.
  • Đoạn 5: Đoạn còn lại tác phẩm: Ý nghĩa to lớn của khởi nghĩa Lam Sơn cũng như lời tuyên bố hòa bình.
Bố cục Bình Ngô Đại cáo
Bố cục Bình Ngô Đại cáo

Phân tích Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi

Sau khi đã nắm được những nét chính về tác giả, tác phẩm, thể loại cũng như bố cục của tác phẩm, chúng ta cùng cảm nhận và phân tích Bình ngô đại cáo.

Tác giả nêu luận đề chính nghĩa

Ngay từ những dòng thơ đầu, tác giả đã nêu tư tưởng nhân nghĩa cũng như khẳng định cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là chính nghĩa, vì lợi ích của nhân dân:

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân.

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”

Mối quan hệ giữa người với người được gây dựng bằng tình yêu thương và đạo lý thì đó chính là nhân nghĩa. Quan trọng hơn là tác giả đã đưa tư tưởng nhân nghĩa gắn liền với thực tế lịch sử dân tộc. Ngay từ hai dòng thơ đầu, Nguyễn Trãi đã cho rằng, yên dân thì trước hết phải trừ bạo để dân được sống hòa bình và yên ổn.

Khi phân tích Bình ngô đại cáo, ta nhận thấy tư tưởng nhân nghĩa không còn hạn hẹp trong phạm vi đạo đức mà đã trở thành lý tưởng xã hội, với đường lối chính trị lấy dân làm gốc.

Do đó, nhân nghĩa phải gắn liền với dân, với cuộc sống bình yên, độc lập và no ấm của nhân dân. Để được như vậy thì cần phải diệt trừ quân xâm lược nhà Minh.  Như vậy, phân tích Bình ngô đại cáo đã cho ta thấy tư tưởng nhân nghĩa chính là lòng yêu nước, thương dântinh thần chống giặc ngoại xâm.

Tiếp theo, Nguyễn Trãi đã đưa ra một loạt chứng cứ xác đáng và thuyết phục nhằm khẳng định chủ quyền của đất nước, của dân tộc:

“Như nước Đại Việt ta từ trước,

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.

Núi sông bờ cõi đã chia,

Phong tục Bắc Nam cũng khác.

Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập,

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.

Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,

Song hào kiệt đời nào cũng có”.

Nước Đại Việt với hàng nghìn năm lịch sử cùng nền văn hiến lâu đời đã tạo nên một diện mạo mới cho dân tộc. Bên cạnh đó chính là sự phân chia về lãnh thổ, núi sông hay các phong tục tập quán.

Phân tích Bình ngô đại cáo trong những câu thơ này đã thể hiện rất rõ Đại Việt là đất nước có chủ quyền, cũng như có các anh hùng hào kiệt chiến đấu hết mình để bảo vệ chủ quyền dân tộc.

Nguyễn Trãi đã đặt các triều đại của dân tộc ngang hàng với các triều đại của Trung Quốc xưa đồng thời khẳng định các triều đại phương Bắc phát triển thì các triều đại của Đại Việt cũng hùng mạnh không kém.

Phân tích Bình ngô đại cáo ta dễ thấy đây chính là sự tự tôn và niềm tự hào sâu sắc về dân tộc của tác giả. Bên cạnh đó, ông cũng nhắc đến những chiến thắng lừng lẫy của nước ta như lời khẳng định sự thất bại thảm hại của kẻ thù:

“Lưu Cung tham công nên thất bại,

Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.

Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,

Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.

Việc xưa xem xét,

Chứng cớ còn ghi”

Các tướng giỏi của Đại Việt đã đánh bại các tướng của nhà Tống, nhà Nguyên. Chính vì sự tham lam, tham công thích lớn nên phải nhận sự thất bại.

Đó là những sự kiện hiển hách vang dội trong lịch sử được lưu lại hậu thế. Nguyễn Trãi đã sử dụng các phép so sánh đối xứng ngang hàng cùng với giọng điệu hào hùng đã làm nổi bật lên tư tưởng nhân nghĩa.

Bản cáo trạng đanh thép về tội ác của quân thù

Phân tích Bình ngô đại cáo trong đoạn tiếp theo này, chúng ta nhận thấy Nguyễn Trãi đã vạch tội những âm mưu và tội ác của kẻ thù xâm lược. Cùng với đó là những chính sách cai trị thâm độc, tàn bạo của kẻ thù và hình ảnh về sự thống khổ của người dân:

“Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,

Để trong nước lòng dân oán hận.

Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa,

Bọn gian tà bán nước cầu vinh”

Với chính sách phiền hà của nhà Hồ đã được quân Minh lợi dụng chớp lấy thời cơ xâm lược nước ta. Sự xâm lược tàn bạo, chính sách cai trị vô nhân đạo, tàn sát người vô tội, sự bóc lột dã man, đồng thời hủy hoại môi trường….

Bước chân xâm lược của chúng khiên nhân dân ta vô cùng căm giận. Cùng lúc ấy thì những kẻ “gian tà” nịnh thần chỉ biết tư lợi cho bản thân mà tiếp tay cho kẻ thù để bán nước cầu vinh.

Để rồi, khi phân tích Bình ngô đại cáo, ta thấy những tội ác mà quân Minh gây ra là không thể dung tha:

“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.

Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế,

Gây binh kết oán trải hai mươi năm.

Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,

Nặng thuế khóa sạch không đầm núi”.

Nhân dân Đại Việt phải chịu cảnh lầm than, khổ cực dưới ách đô hộ thống trị của kẻ thù phương Bắc. Quân xâm lược cai trị nhân dân ta với đủ loại thuế phí vô lí, những kế sách nham hiểm với sự tra tấn dã man tàn bạo. Nhân dân ta phải chịu cuộc sống tăm tối với sự áp bức bóc lột nặng nề của giặc Minh.

Phân tích Bình ngô đại cáo ta còn thấy sự dã man hiểm độc của kẻ thù qua việc chúng hủy hoại môi trường sống, môi trường tự nhiên của dân tộc ta

“Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng.

Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.

Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,

Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt”.

Những hành động hung hãn, sự cai trị độc tài tàn bạo của giặc Minh như ép dân đen “xuống biển dòng lưng mò ngọc” rồi “vào núi đãi cát tìm vàng”.

Quân Minh đã khiến nhân dân ta như những người nô lệ lầm than khổ cực. Chúng xâm lược Đại Việt ta để vơ vét hết những tài sản quý giá, hủy hoại môi trường và bóc lột dã man người dân.

Bên cạnh việc đẩy nhân dân ta vào những chổ hiểm nguy cận kề cái chết mà cúng còn tàn bạo với cả cây cỏ và côn trùng. Nhân dân ta rơi vào cảnh đầy bi thương và khốn khổ:

“Nặng nề những nỗi phu phen

Tan tác cả nghề canh cửi”.

Những tội ác của quân Minh không sao kể hết bởi lẽ:

“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,

Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.

Lẽ nào trời đất dung tha,

Ai bảo thần nhân chịu được?”

Phân tích Bình ngô đại cáo đã chỉ rõ những tội ác và sự dơ bẩn của quân xâm lược ngay cả trúc Nam Sơn, nước Đông Hải cũng không thể ghi hết tội ác và rửa sạch được sự dơ bẩn.

Câu hỏi tu từ cuối câu như nhấn mạnh sự ác độc của kẻ thù. Nhân dân ta không thể tha thứ những kẻ đã tàn sát đồng bào, tàn bạo cây cỏ và môi trường.

Sự đối lập giữa người dân đen vô tội bị đàn áp bóc lột thậm tệ với hình ảnh kẻ thù vô nhân tính đã thể hiện tư tưởng nhân nghĩa của tác giả.

Quá trình chiến đấu gian khổ và sự toàn thắng của khởi nghĩa Lam Sơn

“Ta đây:

Núi Lam sơn dấy nghĩa

Chốn hoang dã nương mình

Ngẫm thù lớn há đội trời chung

Căm giặc nước thề không cùng sống

Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời

Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.

Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,

Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.

Những trằn trọc trong cơn mộng mị,

Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi

Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,

Chính lúc quân thù đang mạnh…

….

Cũng là chưa thấy xưa nay”

Tác giả đã sử dụng cách tự xưng gần gũi ta đã cho thấy vị lãnh tụ mang theo trong mình tấm lòng căm thù giặc sâu sắc, há đội trời chung, thề không cùng sống với bao nhiêu trăn trở, ưu tư đau lòng nhức óc, quên ăn vì giận, những trằn trọc, nỗi băn khoăn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Để rồi khi phân tích Bình ngô đại cáo, ta nhận ra khi vượt qua những ngày tháng nếm mật nằm gai, thấu hiểu lẽ hưng phế ở đời, người anh hùng dân tộc đã trở thành linh hồn của cuộc khởi nghĩa. So với địch, tướng sĩ Lam Sơn khi bắt đầu hoàn toàn yếu thế.

Đúng lúc khởi nghĩa là khi quân thù đương mạnh, trong khi nhân tài, tuấn kiệt của ta lại hiếm hoi, thậm chí quân tiếp viện, lực lượng trực tiếp chiến đấu lẫn lương thảo đều ít ỏi, khó khăn

Người chủ tướng Lê Lợi nhận mệnh lớn trời trao, khi đã biết khắc phục gian nan thì cũng tìm ra được con đường chiến đấu. Do vậy, có tinh thần đoàn kết nhân dân bốn cõi một nhà, tướng sĩ một lòng phụ tử; có kế sách lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều và trên hết ta có đại nghĩa, có chí nhân.

Tuyên bố chiến thắng và nêu lên bài học lịch sử

Trong phạm vi chỉ đôi ba dòng của bài cáo, nhưng với sự khéo léo và tài tình của mình, tác giả đã tái hiện lại một cách chân thực, nhiều góc độ, giúp người đọc rất dễ hình dung ra toàn cảnh của chiến trường khốc liệt.

Trước hết phải kể đến những trận đánh liên tiếp, nối dài, phủ rộng khắp mọi miền. Phân tích Bình ngô đại cáo ta thấy đầu tiên là chiến dịch là trận Bồ Đằng, miền Trà Lân ở xứ Nghệ, tiếp tục kéo đến Tây Kinh xứ Thanh, rồi thẳng tiến về Đông Đô với hai trận Ninh Kiều và Tốt Động, bảo vệ thành công Thăng Long.

Với khí thế và sự quyết tâm của cuộc khởi nghĩa đã khiến cho vua nhà Minh lúc bấy giờ phải động binh cứu viện, nhưng dựa vào tình hình của ta mà nghĩa quân Lam Sơn lại chặn đứng bọn viện binh bằng những trận đánh liên tiếp, mạnh mẽ.

“Âu cũng nhờ trời đất tổ tông

Linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;

Than ôi! Một cỗ nhung y chiến thắng,

Nên công oanh liệt ngàn năm

Bốn phương biển cả thanh bình,

Ban chiếu duy tân khắp chốn.”

Xã tắc từ nay vững bền, đất nước từ nay đổi mới và bước sang một trang mới hơn – đó chính là thời kỳ của tự do, tự chủ, hạnh phúc và ấm no. Phân tích Bình ngô đại cáo ta thấy ở đoạn cuối này Nguyễn Trãi nhắn đến ông cha như một sự biết ơn.

Xem thêm:

Có thể thấy, khi phân tích Bình ngô đại cáo lớp 10 ta nhận thấy giá trị lớn lao của tác phẩm. Đó là áng thiên cổ hùng văn sáng chói mọi thời đại thể hiện sự độc lập và chủ quyền dân tộc và đó cũng là tiếng nói yêu nước thương dân, là quyết tâm và ý chí đánh đuổi kẻ thù xâm lược. Hy vọng bài viết trên đây của chúng tôi về chủ đề cảm nhận và phân tích Bình ngô đại cáo sẽ trở thành những kiến thức hữu ích cho các bạn trong quá trình học tập. Chúc bạn luôn học tốt!

Bạn thấy bài viết này hữu ích chứ?

Hãy chọn vào ngôi sao để đánh giá bài viết

Đánh giá trung bình 0 / 5. Lượt đánh giá 0

Hãy là người đầu tiên đánh giá bài viết

Hãy để lại bình luận

Xem nhiều

Bài tin liên quan

1km2 bằng bao nhiêu hm2? Quy đổi Kilômét vuông sang Héctômét vuông

Ki-lô-mét vuông và héc-tô-mét vuông là đơn vị đo...

Kg/cm2 là gì? Quy đổi kg/cm2 sang kN/m2, MPa, t/m2, psi, kPa, bar

Các đơn vị đo áp suất thường được ứng...

1 hg bằng bao nhiêu kg? Quy đổi từ Héctôgam sang Kilôgam

Đơn vị đo khối lượng hg và kg không...

1kg bằng bao nhiêu tạ, gam, tấn, yến? Cách đổi đơn vị kilogam

Trong cân lường, đơn vị ki-lô-gam thường được chuyển...