Phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà lớp 11 [TOP bài ĐIỂM CAO]

Văn họcPhân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà lớp 11

Ngày đăng:

0
(0)

Phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà để thấy một câu chuyện dường như không có thật nhưng đã phản ánh chân thực “cá tính” của một cái tôi rất Tản Đà. Ông đã mạnh dạn bày tỏ một cái tôi rất ngông và đầy phóng túng của người nghệ sĩ, qua đó tự khẳng định tài năng và quan niệm của mình. Hầu trời đã mang đến một bức chân dung Tản Đà với cái ngông riêng biệt – cái ngông của một nhà nho tài tử ở thời kì mà ý thức cá nhân bắt đầu được trân trọng và khẳng định. Bởi thế mà bài thơ được xem là một tác phẩm tiêu biểu và độc đáo mang tính giao thời giữa cái cũ và cái mới trong nghệ thuật của thơ Tản Đà. Hãy cùng DINHNGHIA.COM.VN tìm hiểu và phân tích Hầu trời qua nội dung bài viết dưới đây.

Mở bài phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà

Mở bài 1: Tản Đà được biết đến là “người của hai thế kỉ”, là “gạch nối” giữa cái cũ và cái mới bởi lối sống và sự nghiệp văn chương của ông. Với những tác phẩm mang đậm dấu ấn cá nhân, hồn thơ Tản Đà được ví như như một ngôi sao sáng trên thi đàn thơ ca dân tộc. Người ta thấy ở Tàn Đà một chất “ngông” rất cá tínhmột cái tôi lãng mạn, vừa bay bổng lại vừa phóng khoáng. Tác phẩm Hầu trời nằm trong tập thơ “Còn chơi” đã cho thấy đậm nét phong cách sáng tác của Tản Đà. Phân tích bài thơ Hầu trời sẽ thấy tác phẩm là minh chứng rất rõ điều đó.

Mở bài 2: Thiên nhiên là đề tài muôn thuở của con người. Trong đó đại diện lớn nhất ông trời. Ông trời trong thơ văn thường hiện lên với những nét nghiêm trang, thiêng liêng chi phối cuộc sống của con người. Nhưng đến với bài Hầu Trời của Tản Đà ta thấy hình ảnh ông trời hiện lên thật khác. Bên cạnh sự uy nghiêm vốn thấy, ông trời trong sáng tác của Tản Đà còn mang cả một sự hóm hỉnh. Và con người không lắng nghe ông trời mà là ông trời lắng nghe tài năng thơ phú của con người

“Đêm qua chẳng biết có hay không

Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mộng

Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!

……………………..

Tiếng gà xao xác, tiếng người dậy

Giữa sân còn đứng riêng ngậm ngùi.

Một năm ba trăm sáu mươi đêm.

Sao được đêm đêm lên hầu Trời!”

Mở bài phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà
Mở bài phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà

Sơ nét về tác giả Tản Đà và tác phẩm Hầu trời

Trước khi phân tích bài thơ Hầu trời, bạn cần nắm được những nét chính về tác giả cùng tác phẩm.

Giới thiệu về nhà thơ Tản Đà

Tản Đà sinh năm 1889 mất năm 1939. Tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu, quê ở Hà Tây nằm bên bờ sông Đà, gần chân núi Tản Viên, đó là lí do vì sao ông lấy bút danh Tản Đà. Xuất thân trong buổi giao thời, Hán học đã suy nhưng chưa tàn hẳn còn Tây học mới bắt đầu chớm nở nên ở con người của Tản Đà ta bắt gặp một sự giao thời giữa hai thế hệ.

Sự xuất hiện của Tản Đà trên thi đàn Việt Nam như một ngôi sao sáng, đặc biệt là vào những năm 20 của thế kỷ XX. Do yếu tố lịch sử thời đại mà không chỉ ở con người mà cả thơ văn của Tản Đà đều thể hiện rõ sự giao thời ấy. Thơ văn của Tản Đà là minh chứng rõ nét nhất như một gạch nối giữa hai thời đại văn học trung đại và hiện đại.

Phong cách sáng tác của Tản Đà có thể gói gọn trong ba chữ sầu – mộng – ngông. Một số sáng tác của Tản Đà phải kể đến là Khối tình con I, II (thơ 1916 – 1918), Khối tình bản chính, Khối tình bản phụ (luận thuyết 1918), Giấc mộng con I, II ( truyện phiêu lưu viễn tưởng 1916 và 1932), thơ Tản Đà (1925), Còn chơi (thơ và văn xuôi – 1921), Giấc mộng lớn (tự truyện 1928),…

Ở thơ văn ấy vừa có sự hòa trộn cái cũ và cái mới tạo nên một nét cá tính riêng trong thơ Tản Đà. Không phải ngẫu nhiên mà thơ Tản Đà được trích dẫn đầu tiên ở thi nhân Việt Nam và được Hoài Thanh kính cẩn gọi là tiên sinh.

Nét chính về tác phẩm Hầu trời

Hầu trời không rõ sáng tác vào thời gian cụ thể nào nhưng đến với tác phẩm ta có thể đoán được tác phẩm này được sáng tác vào giai đoạn trước khi Tản Đà nổi danh và còn gặp nhiều khó khăn trong sự nghiệp. Bài thơ được trích từ tập thơ Còn chơi. Thi phẩm kể về một chuyến đi lên trời của Tản Đà để tiếp chuyện và đọc thơ cho Trời cũng như các vị chư tiên nghe.

Câu chuyện ấy được sắp xếp theo trật tự thời gian rành mạch. Đầu tiên là lí do được lên trời đọc thơ, tiếp đến là diễn biến và quang cảnh buổi đọc thơ, lời kể của tác giả về cảnh ngộ nơi trần gian và đó là cảm nghĩ của tác giả sau khi về trần gian. Bài thơ đã thể hiện cái tôi ngông của tác giả cũng như nỗi ngậm ngùi cho cảnh ngộ bản thân nói riêng và của văn nghệ sĩ đương thời nói chung.

Nét chính về tác phẩm Hầu trời
Nét chính về tác phẩm Hầu trời

Cách giới thiệu câu chuyện và lí do hầu trời

Phân tích bài thơ Hầu trời sẽ thấy tác phẩm được mở đầu bằng một giọng điệu tràn đầy sự bất ngờ hoang mang với hàng loạt câu hỏi:

“Đêm qua chẳng biết có hay không

Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng

Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể

Thật được lên tiên – sướng lạ lùng”

Hầu trời mở đầu với cách vào đề rất độc đáo và ấn tượng theo cách riêng của Tàn Đà. Những lời thủ thỉ tâm tình nhẹ nhàng đã dẫn dắt người đọc một cách cuốn hút. Chuyện kể về một giấc mơ, giấc mơ thì không có thực. Nhưng chính cảm giác chân thực của “chủ thể trữ tình” nên khiến cho người đọc cũng như chính nhà thơ cũng chẳng biết là thực hay mộng, thật hay ảo.

Sự đối lập ấy được nêu ra với bốn từ “thật” được dùng thật đắt giá trong hai câu thơ. Điều này cho thấy chủ thể trữ tình không hề mơ mộng mà thực chất đó chỉ là một giấc mơ. Chính tác giả lúc tỉnh mộng cũng bàng hoàng “chẳng biết có hay không”. Đó là cảm xúc chân thực nhưng sự lãng mạn nằm ở chỗ tác giả muốn người đọc cảm nhận được cái hồn chân thực trong cõi mộng mộng mà như tỉnh, hư mà như thực.

Chỉ với hai câu thơ mà từ “thật” được điệp lại bốn lần không chỉ tạo nhạc điệu mà còn khẳng định cảm xúc chân thực. Khi phân tích bài thơ Hầu trời, ta thấy điều này cũng tạo cho người đọc sự tin tưởng rằng đây chính là câu chuyện có thực mà chính tác giả đã chứng kiến và trải nghiệm.

Trong những khổ thơ tiếp theo, Tản Đà kể về lí do được lên “hầu trời” của mình:

“Nguyên lúc canh ba nằm một mình,

Vắt chân dưới bóng ngọn đèn xanh.

Nằm buồn, ngồi dậy đun nước uống,

Uống xong ấm nước, nằm ngâm văn.

Chơi văn ngâm chán lại chơi trăng

Ra sân cùng bóng đi tung tăng

Trên trời bỗng thấy hai cô xuống

Miệng cười tủm tỉm cùng nói rằng:

– “Trời nghe hạ giới ai ngâm nga,

Tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà!

Làm Trời mất ngủ, Trời đương mắng

Có hay lên đọc, Trời nghe qua”.

Ước mãi bây giờ mới gặp tiên!

Người tiên nghe tiếng lại như quen!

Văn chương nào có hay cho lắm

Trời đã sai gọi thời phải lên.”

Một câu chuyện như vừa mới xảy ra thôi qua ngòi bút của Tản Đà. Dù chỉ là một giấc mơ thôi mà không gian thời gian lại rất rõ ràng chân thực. Tác giả nêu lí do được lên trời đọc thơ là vì cao hứng ngâm thơ. Mà tiếng thơ ngâm ấy quá hay vang vọng cả ngân hà và vang vọng khắp cả cung đình khiến trời mất ngủ.

Do đó trời sai các tiên nữ xuống đem Tản Đà lên trời mà đọc ngâm thơ xem có phải hay như thế không. Nếu không trời sẽ phạt tội. Cơ hội lên trời ấy chính là một sự may mắn tình cờ trong những phút cao hứng của nhà thơ. Những khổ mở đầu đã tạo ra tình huống lên trời đọc thơ thật độc đáo khiến cho người đọc vừa tòm mò vừa hứng thú.

Cái may mắn được lên hầu trời bởi chính những phút ngẫu hứng thơ văn – Tản Đà đã ngầm khẳng định như vậy. Phân tích bài thơ Hầu trời sẽ thấy thật ra nhà thơ ngâm thơ chỉ là phút ngẫu hứng không có ý định kinh động đến trời hay cả ngân hà. Ông không muốn khoe khoang tài năng nhưng vì trời đã gọi nên ông phải lên:

“Văn chương nào có hay cho lắm

Trời đã sai gọi thời phải lên.”

Diễn biến và quang cảnh buổi đọc thơ trên trời

Sau khi trình bày lí do tác giả bắt đầu thuật lại quang cảnh và diễn biến buổi đọc thơ trên trời ấy. Khung cảnh lên trời được miêu tả thật nhanh

“Theo hai cô tiên lên đường mây

Vù vù không cánh mà như bay.

Cửa son đỏ chói, oai rực rỡ

Thiên môn đế khuyết như là đây!”

Sau khi lên đến trời thì thi nhân đã hành lễ trang trọng:

“Vào trông thấy Trời, sụp xuống lạy

Trời sai tiên nữ dắt lôi dậy.

Ghế bành như tuyết vân như mây

Truyền cho văn sĩ ngồi chơi đấy.”

Trời tiếp đón thi nhân trần gian này cũng rất trang trọng được ngồi ghế bành trang trọng như các vị chư tiên khác, được trời sai các tiên nữ pha nước cho uống để đọc cho tốt. Đến các vị chư tiên cũng im lặng để lắng nghe, thể hiện sự tôn trọng tuyệt đối với tài năng nghệ thuật của kẻ hạ giới này.

“Chư tiên ngồi quanh đã tĩnh túc

Trời sai pha nước để nhấp giọng.

Truyền cho “văn sĩ đọc văn nghe!”

– “Dạ bẩm lạy Trời con xin đọc”.

Được đón tiếp trang trọng, cảm nhận được sự tôn trọng ấy nên thi sĩ đã có những phút cao hứng. Bao nhiêu cảm xúc trào dâng, nhà thơ như trút hết ruột gan tài năng của mình để đọc thơ cho các vị chư tiên nghe. Phân tích bài thơ Hầu trời, ta thấy dường như việc đọc thơ ấy không chỉ để phô diễn tài năng cho các vị tiên trên trời mà còn là để thỏa mãn cái tôi của nhà thơ. Chính điều đó đã tạo nên những phút thăng hoa thật sự.

“Đọc hết văn vần lại văn xuôi

Hết văn thuyết lý lại văn chơi

Đương cơn đắc ý đọc đã thích

Chè trời nhấp giọng càng tốt hơi.

Văn dài hơi tốt ra cung mây!”

Những bài thơ lay động lòng người cùng phút thăng hoa của tâm hồn nghệ sĩ đã tác động mạnh mẽ đến những người nghe xung quanh. Ai nấy cũng đều xúc động tán thưởng. Dường như ranh giới giữa tiên và người phàm đã xóa nhòa. Trong không gian, thời gian hiện tại chỉ còn những con người ở bên cạnh nhau được kết nối với nhau bằng tình yêu nghệ thuật. Đó là quan hệ giữa nhà thơ và người đọc. Chính người đọc giúp cho nhà thơ được thăng hoa còn nhà thơ lại gieo vào lòng người đọc những cảm xúc nhẹ nhàng thanh khiết và hướng thiện.

“Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay,

Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi

Hằng Nga, Chúc Nữ chau đôi mày

Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng

Đọc xong mỗi bài cũng vỗ tay.”

Lời trần tình của nhà thơ và thái độ của người nghe

Sau khi đọc xong nhận được sự yêu mến của mọi người, Tản Đà đã tóm tắt lại sự nghiệp sáng tác của mình một cách cô đọng và toàn diện nhất.

– “Bẩm con không dám man cửa Trời

Những áng văn con in cả rồi

Hai quyển “Khối tình” văn thuyết lý

Hai “Khối tình” con là văn chơi

“Thần tiền”, “Giấc mộng” văn tiểu thuyết

“Đài gương”, “Lên sáu” văn vị đời

Quyển “Đàn bà Tàu” lối văn dịch

Đến quyển “Lên tám” nay là mười

Nhờ Trời văn con còn bán được

Chử biết con in ra mấy mươi?”

Những tác phẩm cùng với thể loại ta có thể thấy Tản Đà là một người nghệ sĩ tài hoa trải nghiệm trên nhiều thể loại và ở mỗi thể loại đều đạt được những thành công to lớn. Phép liệt kê đã phát huy hết toàn bộ khả năng tạo nên nhịp điệu cho đoạn thơ. Đến trời và các vị chư tiên cũng dặn dò mong muốn có được những tuyệt tác ấy.

“Văn đã giàu thay, lại lắm lối

Trời nghe Trời cũng bật buồn cười!

Chư tiên ao ước tranh nhau dặn:

– “Anh gánh lên đây bán chợ Trời!”

Ngay chính ông trời uy nghi cũng tỏ ra tán thưởng trước tài năng của Tản Đà và dành những lời khen có cánh cho tài năng này. Để cho trời khen và công nhận tài năng của mình cũng là một cách để cho Tản Đà khẳng định tài năng của mình. Phân tích bài thơ Hầu trời sẽ thấy đây cũng chính là một nét lãng mạn đặc biệt của Tản Đà.

“Trời lại phê cho: “Văn thật tuyệt!

Văn trần được thế chắc có ít!

Nhời văn chuốt đẹp như sao băng!

Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!

Êm như gió thoảng! Tinh như sương!

Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!

Chẳng hay văn sĩ tên họ gì?

Người ở phương nào, ta chưa biết”.

Cái hay cái đẹp trong tài năng ấy được miêu tả bằng những hình ảnh kỳ vĩ của vũ trụ. Dường như chỉ có sự hùng vĩ ấy của thiên nhiên đất trời mới có thể dùng để so sánh với vẻ đẹp tài năng của Tản Đà mà thôi. Ý thức về tài năng của mình đã tạo nên những nét rất ngông trong tài năng của ông. Nên ông mạnh mẽ xưng tên lai lịch với trời.

– “Dạ, bẩm lạy Trời con xin thưa

Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn

Quê ở Á Châu và Địa cầu

Sông Đà núi Tản nước Nam Việt”.

Dạ, bẩm lạy Trời con xin thưa

Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn

Quê ở Á châu về địa cầu

Sông Đà núi Tản nước Nam Việt”

Trời ngờ ngợ một lúc lâu rồi sai Thiên tào kiểm tra lại.

Thiên tào tra sổ rồi bẩm báo:

” – Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu

Đày xuống hạ giới vì tội ngông”.

“- Bẩm Trời, cảnh con thực nghèo khó

Trần gian thước đất cũng không có

………………………

Trời lại sai con việc nặng quá

Biết làm có được mà dám theo”

Cách xưng tên của tác giả mang những nét đặc biệt. Bởi lúc ấy nước ta đã hoàn toàn bị xóa tên khỏi bản đồ chỉ còn xứ An Nam nhập chung với Cao Miên và Ai Lao thành liên bang Đông Dương thuộc địa của thực dân Pháp. Tác giả mạnh mẽ tự hào khẳng định quê mình là Việt nam cho thất ý thức dân tộc sâu sắc. Chỉ một chi tiết nhỏ nhưng cũng cho thấy sự tự hào của Tản Đà đối với đất nước.

Tác giả cũng đã trần tình về cảnh ngộ ở trần gian. Tuy tài năng nhưng ông cũng rất khó khăn trong việc mưu sinh bằng nghề văn, tất cả đều phải thuê mướn phải luôn làm bạn với sự nghèo khó chạy lo miếng ăn. Đây không chỉ là tình cảnh của riêng ông mà còn là tình cảnh của nhiều thi sĩ khác. Đó là hoàn cảnh cay đắng tủi nhục của những người vốn đem học thức văn chương đi kiếm ăn nhưng nhận lại chỉ là cay đắng chua xót.

Khi phân tích bài thơ Hầu trời, ta thấy sau cùng mới phát hiện ra một điều hóa ra ông là một trích tiên, xuống trần gian vì tội ngông. Trời cũng thấu hiểu cho nỗi lòng ông nên đã khuyên nhủ.

“Rằng: Con không nói Trời đã biết

Trời dẫu ngồi cao, Trời thấu hết

Thôi con cứ về mà làm ăn

Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết”

 

Cuộc chia tay lưu luyến với trời và các vị chư tiên

Cuộc chia tay diễn ra đầy lưu luyến được thi nhân thể hiện:

“Hai hàng lụy biệt giọt sương rơi

Trông xuống trần gian vạn dặm khơi

Thiên tiên ở lại, trích tiên xuống

Theo đường không khí về trần ai”

Và cuối cùng ông cũng có một ước mơ

“Một năm ba trăm sáu mươi đêm

Sao được mỗi đêm lên hầu Trời”.

Ước muốn lên trời vì ở đó có người đồng cảm thấu hiểu cho ông. Thế nhưng ước mơ cũng chỉ là mơ ước. Một phút gặp gỡ ngắn ngủi nhưng lưu lại nhiều kỷ niệm và điều đó trở thành động lực cho ông phấn đấu hơn trong sự nghiệp văn chương.

Cách giới thiệu câu chuyện và lí do hầu trời
Cách giới thiệu câu chuyện và lí do hầu trời

Đánh giá tác phẩm khi phân tích bài thơ Hầu trời

Qua việc phân tích bài thơ Hầu trời, ta thấy Tản Đà đã thể hiện một cái tôi cá nhân mạnh mẽ. Đó là một cái tôi ngông cuồng phóng khoáng. Nhưng sự ngông cuồng phóng khoáng ấy xuất phát từ chính ý thức về tài năng và nhân cách về giá trị của bản thân giữa cuộc đời này. Thể thơ thất ngôn trường thiên kết hợp với cách sử dụng ngôn ngữ đã tạo nên một giọng điệu thoải mái tự do pha chút hóm hỉnh rất riêng của bài thơ.

Kết bài: Bài thơ khép lại nhưng dường như ta vẫn còn đang chìm trong những cảm xúc lâng lâng bâng quơ như chính người đọc cũng đang có mặt nơi cảnh thiên đình ấy để nghe Tản Đà đọc thơ. Đó chính là thành công của tác phẩm. Nhắc đến Tản Đà người ta sẽ mãi nhớ đến một nhà thơ ngông tự tin và đầy cá tính.

Dàn ý phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà

Để giúp các bạn nắm được giá trị nội dung và tư tưởng của tác phẩm, nghệ thuật của bài thơ cũng như những nét chính trong bài viết, DINHNGHIA.VN sẽ giúp bạn lập dàn ý phân tích bài thơ Hầu trời.

Mở bài phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà

  • Khái quát những nét nổi bật về nhà thơ Tản Đà và tác phẩm Hầu trời.
  • Dẫn dắt vấn đề cần phân tích bài thơ Hầu trời.

Thân bài phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà

  • Giới thiệu những nét chính về tác giả cùng tác phẩm.
  • Thái độ của thi nhân khi đọc thơ cùng thái độ về tác phẩm của mình.
  • Quang cảnh thi nhân đọc thơ cho trời cùng các vị chư tiên.
  • Thái độ của người nghe cùng lời trần tình của nhà thơ.
  • Cuộc chia tay lưu luyến của thi nhân với trời cùng các chị chư tiên.

Kết bài phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà

  • Tóm tắt những nét đặc sắc trong nội dung cùng nghệ thuật của tác phẩm.
  • Trình bày những cảm nhận của em khi phân tích bài thơ Hầu trời.
Dàn ý phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà
Dàn ý phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà

Tác phẩm Hầu trời tiêu biểu cho nét “giao thời” trong nghệ thuật của nhà thơ. Đây được xem là tác phẩm độc đáo và điển hình cho phong cách thơ Tản Đà. Phân tích bài thơ Hầu trời, ta còn nhận thấy những nét mới mẻ về xu hướng phát triển của thơ Việt Nam trong những năm hai mươi của thế kỉ XX.

Bài thơ Hầu trời khẳng định tác giả đã mạnh mẽ thể hiện cá tính, bộc lộ cái tôi rất ngông của mình một cách phóng khoáng. Nhà thơ đã tự ý thức được về giá trị đích thực cũng như tài năng nghệ thuật của mình cùng với niềm khao khát khẳng định bản thân giữa cuộc đời. Tác phẩm sử dụng điêu luyện thể thơ thất ngôn trường thiên, ngôn ngữ dung dị thoải mái, giọng điệu hóm hỉnh. Cũng bởi vậy mà “Hầu trời” xứng đáng là áng thơ tiêu biểu, là gạch nối giữa hai thời đại văn học của dân tộc: trung đại và hiện đại.

Xem thêm:

Trên đây là những phân tích Hầu trời của Tản Đà. Hy vọng đã cung cấp cho bạn những ý văn hay phục vụ cho quá trình học tập của mình. Nếu có bất cứ thắc mắc hay góp ý gì cho chủ đề phân tích bài thơ Hầu trời, đừng quên để lại bình luận để cùng giáo viên của chúng tôi trao đổi thêm nhé. Đừng quên share nếu thấy hay nha!.

Bạn thấy bài viết này hữu ích chứ?

Hãy chọn vào ngôi sao để đánh giá bài viết

Đánh giá trung bình 0 / 5. Lượt đánh giá 0

Hãy là người đầu tiên đánh giá bài viết

Hãy để lại bình luận

Xem nhiều

Bài tin liên quan

1km2 bằng bao nhiêu hm2? Quy đổi Kilômét vuông sang Héctômét vuông

Ki-lô-mét vuông và héc-tô-mét vuông là đơn vị đo...

Kg/cm2 là gì? Quy đổi kg/cm2 sang kN/m2, MPa, t/m2, psi, kPa, bar

Các đơn vị đo áp suất thường được ứng...

1 hg bằng bao nhiêu kg? Quy đổi từ Héctôgam sang Kilôgam

Đơn vị đo khối lượng hg và kg không...

1kg bằng bao nhiêu tạ, gam, tấn, yến? Cách đổi đơn vị kilogam

Trong cân lường, đơn vị ki-lô-gam thường được chuyển...