Một số bài văn về cảm nhận bài thơ Tràng giang chọn lọc, hay nhất

0
(0)

Với những bạn yêu thích văn học Việt Nam, chắc hẳn đã không còn xa lạ gì với bài thơ Tràng giang của nhà thơ Huy Cận. Để giúp các bạn có thể phân tích và cảm nhận bài thơ Tràng giang một cách tốt nhất, hãy cùng xem qua một số bài văn dưới đây cùng DINHNGHIA.com.vn nhé!

Giới thiệu chung về bài thơ

Tác giả

Tiểu sử

Thời kỳ Cách mạng có rất nhiều những nhà thơ nổi bật, trong đó không thể không nhắc đến nhà thơ Huy Cận. Thơ của ông có một giọng thơ rất riêng biệt, và Huy Cận cũng đã khẳng định tên tuổi của mình trong phong trào Thơ mới 1930 – 1945.

Ông được sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo sống ở làng Ân Phú, tỉnh Hà Tỉnh. Khi Huy Cận đi học ở Huế, chú của ông đã khai ngày sinh của Huy Cận là ngày 31/05/1919, tuy nhiên thực tế thì ngày sinh của ông là 29/12 năm Bính Thìn.

Huy Cận là một trong các nhà thơ nổi bật thời kỳ Cách Mạng
Huy Cận là một trong các nhà thơ nổi bật thời kỳ Cách Mạng

Sự nghiệp văn học

Những bài thơ của tác giả Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám, thường làm mang đến cho người đọc một nỗi buồn man mác của một kiếp người và trong từng câu thơ, ông cũng lồng ghép những cảnh đẹp của thiên nhiên, của tạo vật xung quanh. Có thể đề cập đến một số tác phẩm như “Lửa thiêng”, “Vũ trụ ca”, “Kinh cầu tự”.

Đến thời kỳ sau Cách mạng tháng Tám, phong cách thơ của Huy Cận trở nên mới lạ, có phần lạc quan hơn. Trong những bài thơ của Huy Cận ở giai đoạn này mang theo vẻ đẹp của thiên nhiên cùng một nỗi sầu nhân thế, làm cho các bài thơ của ông trở thành một nét tiêu biểu của nền văn học Việt Nam.

Những nét riêng biệt này đều được Huy Cận thể hiện thông qua bài thơ “Tràng giang”. Đây cũng được xem là một trong những bài thơ tiêu biểu và nổi tiếng nhất trong sự nghiệp thơ ca của Huy Cận giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám.

Sau Cách mạng tháng tám, hồn thơ của ông đã trở nên mới lạ hơn, lạc quan hơn
Sau Cách mạng tháng tám, hồn thơ của ông đã trở nên mới lạ hơn, lạc quan hơn

Tác phẩm

Nói đến bài thơ “Tràng giang”, có thể thấy đây là một tác phẩm mang đến cho người đọc một nỗi sầu “mang mang thiên cổ” đặc trưng trong phong cách của Huy Cận. Khi phân tích vào từng câu thơ, ta sẽ dễ dàng cảm nhận được nỗi buồn của chàng thanh niên qua một cách miêu tả rất Huy Cận – nỗi buồn của chàng thanh niên mà “trọn kiếp mắt chàng thường đẫm lệ”.

Bài thơ “Tràng giang” được nhà thơ Huy Cận sáng tác vào mùa thu năm 1993, khi Huy Cận đứng trước dòng sông Hồng mênh mông, rộng lớn với những gợn sóng nước lăn tăn. Qua đó có thể thấy được rằng, bài thơ “Tràng giang” đã thể hiện rõ nét lòng yêu nước thầm kín và sâu sắc của Huy Cận.

Bố cục của “Tràng giang” cũng được Huy Cận sắp xếp rất tài tình khi ba khổ thơ đầu, ông vừa lồng ghép những nét đẹp của thiên nhiên vừa nói lên được tâm trạng mang mác buồn của mình. Còn đến với hai khổ thơ cuối chính là những vần thơ thay cho lòng yêu nước, tình yêu sâu đậm mà ông dành cho quê hương của mình.

Âm hưởng trong bài thơ Tràng giang như là một bản ngậm ngùi dài
Âm hưởng trong bài thơ Tràng giang như là một bản ngậm ngùi dài

Dàn ý cảm nhận bài thơ Tràng giang của tác giả Huy Cận

Mở bài

  • Giới thiệu đôi nét về tác giả Cù Huy Cận cùng bài thơ Tràng giang (thể hiện đậm nét hồn thơ tác giả trước Cách mạng tháng tám).
  • Khái quát một số nét đặc sắc nổi bật trong nội dung cũng như nghệ thuật của tác phẩm.
Mở bài có thể giới thiệu đôi nét về tác giả Cù Huy Cận và bài thơ Tràng giang
Mở bài có thể giới thiệu đôi nét về tác giả Cù Huy Cận và bài thơ Tràng giang

Thân bài

  • Bức tranh thiên nhiên vô tận cùng nỗi buồn từ sóng nước.

Những xoáy nước xô đuổi nhau đến tận chân trời gợi cảm giác buồn trùng điệp.

Một nỗi buồn miên man kéo dài bất tận theo tâm trạng của chủ thể trữ tình.

Sự trôi nổi và phó mặc của tác giả trên dòng sông hữu tình đó.

Miêu tả tâm trạng chia li và tan tác của chủ thể trữ tình trong bài thơ.

  • Nỗi buồn cảnh vật bến bờ cùng thời gian và không gian của bài thơ

Sự hoang vắng và đìu hiu với không gian tĩnh mịch và vắng lặng.

Không gian được đẩy lên vô tận ngược lại với sự nhỏ bé của con người.

  • Cảm nhận bài thơ Tràng giang để thấy nỗi buồn thể hiện tình yêu đất nước thầm kín

Không có sự giao hòa giữa con người với con người cũng như con người với thiên nhiên.

Sự trống trải và cô đơn, khát khao đồng cảm giữa con người.

Một nỗi buồn thấm đượm đầy da diết về quê hương đất nước của nhà thơ.

Cảm nhận bài thơ Tràng giang để thấy nỗi buồn thể hiện tình yêu đất nước thầm kín
Cảm nhận bài thơ Tràng giang để thấy nỗi buồn thể hiện tình yêu đất nước thầm kín

Kết bài

  • Khái quát những ý chính trong bài cảm nhận Tràng giang.
  • Tóm tắt giá trị nội dung cũng như giá trị nghệ thuật của tác phẩm.
  • Bày tỏ suy nghĩ của bản thân khi cảm nhận bài thơ Tràng giang.
Khái quát những ý chính trong bài cảm nhận Tràng giang
Khái quát những ý chính trong bài cảm nhận Tràng giang

Nhận xét tác phẩm khi cảm nhận bài thơ Tràng giang

Khi đọc bài thơ “Tràng giang” ta cảm thấy được một nỗi buồn tủi qua từng lời thơ, từng âm điệu, chúng tựa như những dòng chảy của con sông, len lỏi chảy dần vào sâu trong tâm hồn của người đọc. Từ đó chạm khắc được những ấn tượng có phần thâm trầm nhưng lại rất sâu lắng.

Chỉ bằng biện pháp so sánh và tu từ, Huy Cận đã tạo được nét chấm phá cho bài thơ thông qua những cảnh đẹp của thiên nhiên. Tác giả cũng đã khắc họa được không gian bao la bát ngát của thiên nhiên quê hương, cùng với nỗi buồn sâu đậm về các kiếp người.

Nhờ vào những hình ảnh so sánh tài tình của Huy Cận, người đọc có thể thấy được vẻ đẹp của thiên nhiên và con người như hòa quyện vào nhau. Qua đó, tác giả Huy Cận cũng bày tỏ tình yêu quê hương đất nước con người của chính bản thân ông.

Khi cảm nhận bài thơ Tràng giang, ta thấy thấm thía một nỗi sầu buồn
Khi cảm nhận bài thơ Tràng giang, ta thấy thấm thía một nỗi sầu buồn

Một số bài văn mẫu cảm nhận bài thơ Tràng giang

Bài 1

Cảm nhận bài thơ Tràng giang để nhìn những cơn sóng nhỏ đang lặng lẽ gối đầu nhau mà đi xa đến tận cuối chân trời, tâm hồn nhà thơ bỗng dâng lên một nỗi buồn “điệp điệp”.

“Sóng gợn Tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song”

Từ “điệp điệp” đã tạo nên hình ảnh một nỗi buồn ngàn trùng, một nỗi buồn triền miên, lớp lớp… Thường người ta nói “trùng trùng điệp điệp” để chỉ núi non, nhưng ở đây tác giả lại đem nó để miêu tả một nỗi buồn, đúng là một sáng tạo thật độc đáo trong cách dùng từ để hình ảnh hóa một nỗi buồn thật là lãng mạn! Âm điệu thơ như ngân xa da diết, như thân thuộc quen quen. Có lẽ Huy Cận đã liên tưởng đến một câu ca dao:

“Sóng bao nhiêu gợn, dạ em sầu bấy nhiêu”

Ở đây, có bao nhiêu gợn sóng trên dòng tràng giang là có bấy nhiêu nỗi buồn trong lòng thi sĩ. Khi cảm nhận bài thơ Tràng giang, ta thấy câu thơ không chỉ nghiêng về số liệu mà còn nặng về sắc thái, nỗi buồn chỉ nhẹ nhàng lặng lẽ thôi nhưng da diết và dai dẳng, nó như vô tình ngàn xa và tạo thành một tiếng buồn vô tình, vang vọng mãi giữa đất trời vũ trụ…

Giữa những lớp sóng bạt ngàn đó là hình ảnh của một con thuyền. Một con thuyền nhỏ nổi bật giữa những lớp sóng nhưng cũng đang khuất chìm trong chúng. Hình ảnh độc đáo vô cùng!

Chiếc thuyền con như đang lênh đênh, bập bềnh không định hướng, cứ xuôi mãi, xuôi mãi theo dòng nước vô tận nghìn trùng. Cụm từ “nước song song” cũng là một cấu từ mới lạ. Nó đối với “buồn điệp điệp” ở câu trên như để gợi ra một nỗi buồn mênh mông trùng điệp!

Sang câu thơ thứ ba, nước và thuyền đã chuyển động ngược chiều nhau, con thuyền đã không còn trôi xuôi theo dòng nước nữa:

“Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng…”

Thế cân bằng song song của câu thơ đã bị phá vỡ. Thuyền về, mà về đâu? Không rõ! Chỉ để lại một mặt sông vắng bóng thuyền, nỗi cô đơn như trải rộng ra dường như vô tận. Hình ảnh con thuyền cứ khuất dần, khuất dần rồi xa mờ hẳn, nước đành chia “sầu trăm ngả”. Huy Cận đã khéo léo trong việc miêu tả sự vận động của sự vật để nói đến bước đi của không gian. Thời gian vận chuyển theo tầm nhìn con thuyền và không gian cũng mở rộng cùng với nó.

Nếu như lúc trước, không gian chỉ xác định theo dòng nước đang chuyển động song song cùng với con thuyền thì hình bóng con thuyền đã trở nên mất dạng, không gian chợt mở rộng ra đến “trăm ngả”, vô tận mênh mông không có lấy một điểm tựa nào. Chính vì vậy, câu thơ thứ ba đã trở thành một đòn bẩy để nâng câu thơ cuối tạo thành một chi tiết độc đáo vô cùng:

“Củi một cành khô lạc mấy dòng”

Độc đáo về hình ảnh thơ và cả ý thơ! “Củi một cành khô” có lẽ là một hình ảnh mà ta chưa từng bắt gặp bao giờ, chính nó đã đưa đoạn thơ thoát khỏi bầu không khí cổ kính để trở về với thời hiện đại. Hình ảnh một cành củi khô đang nổi trội dập dềnh giữa muôn vàn cơn sóng, lúc bị đẩy bên này, lúc lại dạt sang bên kia… Đó có phải chăng là hóa thân của một kiếp người lữ thứ, luôn lạc lõng bơ vơ, bị cuốn trôi theo chiều xoáy cuộc đời?

Dòng tràng giang đó, vẫn bình thản suy tư qua lớp sóng “buồn điệp điệp”, qua dòng khơi “nước song song” và qua vẻ hững hờ mặc cho “thuyền về nước lại” mặc cho nhánh củi lạc loài trôi! Ôi, tràng giang, sóng gợn tràng giang! Một nỗi sầu nhân thế cứ dài dằng dặc ra mãi khi cảm nhận bài thơ Tràng giang…

Những bài văn mẫu cảm nhận về bài thơ Tràng giang
Những bài văn mẫu cảm nhận về bài thơ Tràng giang

Bài 2

Nhà thơ Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, với giọng thơ rất riêng đã khẳng định tên tuổi của mình trong phong trào thơ mới 1930 – 1945. Ông vốn quê quán Hương Sơn, Hà Tĩnh, sinh năm 1919 và mất năm 2005. Trước Cách mạng tháng tám, thơ ông mang nỗi sầu về kiếp người và ca ngợi cảnh đẹp của thiên nhiên, tạo vật với các tác phẩm tiêu biểu như” “Lửa thiêng”, “Vũ trụ ca”, Kinh cầu tự”. Nhưng sau Cách mạng tháng tám, hồn thơ của ông đã trở nên lạc quan, được khơi nguồn từ cuộc sống chiến đấu và xây dựng đất nước của nhân dân lao động” “Trời mỗi ngày lại sáng”, “Đất nở hoa”, “Bài thơ cuộc đời”…

Vẻ đẹp thiên nhiên nỗi ưu sầu nhân thế, một nét thơ tiêu biểu của Huy Cận, được thể hiện khá rõ nét qua bài thơ “Tràng giang “. Đây là một bài thơ hay, tiêu biểu và nổi tiếng nhất của Huy Cận trước Cách mạng tháng tám.

Bài thơ được trích từ tập “Lửa thiêng”, được sáng tác khi Huy Cận đứng ở bờ Nam bến Chèm sông Hồng, nhìn cảnh mênh mông sóng nước, lòng vời vợi buồn, cám cảnh cho kiếp người nhỏ bé, nổi trôi giữa dòng đời vô định. Mang nỗi u buồn hoài như thế nên bài thơ vừa có nét đẹp cổ điển lại vừa đượm nét hiện đại, đem đến sự thích thú, yêu mến cho người đọc.

“Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài

Sóng gợn Tràng giang buồn điệp điệp

….

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Ngay từ thi đề, nhà thơ Huy Cận đã khéo gợi lên vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại cho bài thơ. “Tràng giang” là một cách nói chệch đầy sáng tạo của Huy Cận. Hai âm “anh” đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát. Hai chữ “Tràng giang” mang sắc thái cổ điển trang nhã, gợi liên tưởng về dòng Trường giang trong thơ Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, dòng sông của tâm tưởng.

Tứ thơ “Tràng giang” mang nét cổ điển như thơ xưa” Nhà thơ thường ẩn đằng sau cái mênh mông sóng nước, không như các nhà thơ mới thường thể hiện cái tôi của mình. Nhưng nếu các thi nhân xưa tìm đến thiên nhiên để mong hoà nhập, giao cảm, Huy cận lại tìm về thiên nhiên để thể hiện nỗi ưu tư, buồn bã về kiếp người cô đơn, nhỏ bé trước vũ trụ bao la. Đó cũng là vẻ đẹp đầy sức quyến rũ của tác phẩm, ẩn chứa một tinh thần hiện đại.

Câu đề từ giản dị, ngắn gọn với chỉ bảy chữ nhưng đã thâu tóm được cảm xúc chủ đạo của cả bài” “Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài”. Trước cảnh “trời rộng”, “sông dài” sao mà bát ngát, mênh mông của thiên nhiên, lòng con người dấy lên tình cảm “bâng khuâng” và nhớ. Từ láy “bâng khuâng” được sử dụng rất đắc địa, nó nói lên được tâm trạng của chủ thể trữ tình, buồn bã, u sầu, cô đơn, lạc lõng. Con “sông dài”, nghe miên man tít tắp ấy cứ vỗ sóng đều đặn khắp các khổ thơ, cứ cuộn sóng lên mãi trong lòng nhà thơ làm rung động trái tim người đọc.

Và ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con sóng lòng đầy ưu tư, sầu não như thế.

“gợn Tràng giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song.

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng.”

Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ được thể hiện khá rõ ngay từ bốn câu đầu tiên này. Hai từ láy nguyên “điệp điệp”, “song song” ở cuối hai câu thơ mang đậm sắc thái cổ kính của Đường thi. Không chỉ mang nét đẹp ấy, nó còn đầy sức gợi hình, gợi liên tưởng về những con sóng cứ loang ra, lan xa, gối lên nhau, dòng nước thì cứ cuốn đi xa tận nơi nào, miên man miên man.

Trên dòng sông gợn sóng “điệp điệp”, nước “song song” ấy là một “con thuyền xuôi mái”, lững lờ trôi đi. Trong cảnh có sự chuyển động là thế, nhưng sao chỉ thấy vẻ lặng tờ, mênh mông của thiên nhiên, một dòng “Tràng giang ” dài và rộng bao la không biết đến nhường nào.

Dòng sông thì bát ngát vô cùng, vô tận, nỗi buồn của con người cũng đầy ăm ắp trong lòng.

“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng.”

Thuyền và nước vốn đi liền nhau, thuyền trôi đi nhờ nước xô, nước vỗ vào thuyền. Thế mà Huy Cận lại thấy thuyền và nước đang chia lìa, xa cách “thuyền về nước lại”, nghe sao đầy xót xa.

Chính lẽ vì thế mà gợi nên trong lòng người nỗi “sầu trăm ngả”. Từ chỉ số nhiều “trăm” hô ứng cùng từ chỉ số “mấy” đã thổi vào câu thơ nỗi buồn vô hạn.

Tâm hồn của chủ thể trữ tình được bộc lộ đầy đủ nhất qua câu thơ đặc sắc” “Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Huy Cận đã khéo dùng phép đảo ngữ kết hợp với các từ ngữ chọn lọc, thể hiện nỗi cô đơn, lạc lõng trước vũ trụ bao la. “Một” gợi lên sự ít ỏi, nhỏ bé, “cành khô” gợi sự khô héo, cạn kiệt nhựa sống, “lạc” mang nỗi sầu vô định, trôi nổi, bập bềnh trên “mấy dòng” nước thiên nhiên rộng lớn mênh mông. Cành củi khô đó trôi dạt đi nơi nào, hình ảnh giản dị, không tô vẽ mà sao đầy rợn ngợp, khiến lòng người đọc cảm thấy trống vắng, đơn côi.

Nét đẹp cổ điển “tả cảnh ngụ tình” thật khéo léo, tài hoa của tác giả, đã gợi mở về một nỗi buồn, u sầu như con sóng sẽ còn vỗ mãi ở các khổ thơ còn lại để người đọc có thể cảm thông, thấu hiểu về một nét tâm trạng thường gặp ở các nhà thơ mới. Nhưng bên cạnh đó ta cũng nhìn ra một vẻ đẹp hiện đại rất thi vị của khổ thơ. Đó là ở cách nói “Củi một cành khô” thật đặc biệt, không chỉ thâu tóm cảm xúc của toàn khổ, mà còn hé mở tâm trạng của nhân vật trữ tình, một nỗi niềm đơn côi, lạc lõng.

Nỗi lòng ấy được gợi mở nhiều hơn qua hình ảnh quạnh vắng của không gian lạnh lẽo.

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.”

Hai từ láy “lơ thơ” và “đìu hiu” được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một dòng thơ đã vẽ nên một quang cảnh vắng lặng. “Lơ thơ” gợi sự ít ỏi, bé nhỏ “đìu hiu” lại gợi sự quạnh quẽ. Giữa khung cảnh “cồn nhỏ”, gió thì “đìu hiu”, một khung cảnh lạnh lẽo, tiêu điều ấy, con người trở nên đơn côi đến nỗi phải thốt lên “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”.

Chỉ một câu thơ mà mang nhiều sắc thái, vừa gợi “đâu đó”, âm thanh xa xôi, không rõ rệt, có thể là câu hỏi “đâu” như một nỗi niềm khao khát, mong mỏi của nhà thơ về một chút sự hoạt động, âm thanh sự sống của con người. Đó cũng có thể là “đâu có”, một sự phủ định hoàn toàn, chung quanh đây chẳng hề có chút gì sống động để xua bớt cái tịch liêu của thiên nhiên. Đôi mắt nhân vật trữ tình nhìn theo nắng, theo dòng trôi của sông.

“Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”

“Nắng xuống, trời lên” gợi sự chuyển động, mở rộng về không gian, và gợi cả sự chia lìa” bởi nắng và trời mà lại tách bạch khỏi nhau. “sâu chót vót” là cảnh diễn đạt mới mẻ, đầy sáng tạo của Huy Cận, mang một nét đẹp hiện đại. Đôi mắt nhà thơ không chỉ dừng ở bên ngoài của trời, của nắng, mà như xuyên thấu và cả vũ trụ, cả không gian bao la, vô tận. Cõi thiên nhiên ấy quả là mênh mông với “sông dài, trời rộng”, còn những gì thuộc về con người thì lại bé nhỏ, cô đơn biết bao” “bến cô liêu”.

Vẻ đẹp cổ điển của khổ thơ hiện ra qua các thi liệu quen thuộc trong Đường thi như” sông, trời, nắng, cuộc sống con người thì buồn tẻ, chán chường với “vãn chợ chiều”, mọi thứ đã tan rã, chia lìa.

Nhà thơ lại nhìn về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì quen thuộc mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh, về cô đơn. Nhưng thiên nhiên đã đáp trả sự khao khát ấy bằng những hình ảnh càng quạnh quẽ, đìu hiu.

“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,

Mênh mông không một chuyến đò ngang.

Không cần gợi chút niềm thân mật,

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”

Hình ảnh cánh bèo trôi bồng bềnh trên sông là hình ảnh thường dùng trong thơ cổ điển, nó gợi lên một cái gì bấp bênh, nổi trôi của kiếp người vô định giữa dòng đời. Nhưng trong thơ Huy Cận không chỉ có một hay hai cánh bèo, mà là “hàng nối hàng”. Bèo trôi hàng hàng càng khiến lòng người rợn ngợp trước thiên nhiên, để từ đó cõi lòng càng đau đớn, cô đơn.

Bên cạnh hàng nối hàng cánh bèo là “bờ xanh tiếp bãi vàng” như mở ra một không gian bao la vô cùng, vô tận, thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên, dường không có con người, không có chút sinh hoạt của con người, không có sự giao hoà, nối kết:

“Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật.”

Tác giả đưa ra cấu trúc phủ định. “…không… không” để phủ định hoàn toàn những kết nối của con người. Trước mắt nhà thơ giờ đây không có chút gì gợi niềm thân mật để kéo mình ra khỏi nỗi cô đơn đang bao trùm, vây kín, chỉ có một thiên nhiên mênh mông, mênh mông. Cầu hay chuyến đò ngang, phương tiện giao kết của con người, dường như đã bị cõi thiên nhiên nhấn chìm, trôi đi nơi nào.

Huy Cận lại khéo vẽ nét đẹp cổ điển và hiện đại cho bầu trời trên cao”

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.”

Bút pháp chấm phá với “mây cao đùn núi bạc” thành “lớp lớp” đã khiến người đọc tưởng tượng ra những núi mây trắng được ánh nắng chiếu vào như dát bạc. Hình ảnh mang nét đẹp cổ điển thật trữ tình và lại càng thi vị hơn khi nó được khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ Đường cổ của Đỗ Phủ:

“Mặt đất mây đùn cửa ải xa.”

Huy Cận đã vận dụng rất tài tình động từ “đùn”, khiến mây như chuyển động, có nội lực từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn ra mãi. Đây cũng là một nét thơ đầy chất hiện đại, bởi nó đã vận dụng sáng tạo từ thơ cổ điển quen thuộc.

Và nét hiện đại càng bộc lộ rõ hơn qua dấu hai chấm thần tình trong câu thơ sau. Dấu hai chấm này gợi mối quan hệ giữa chim và bóng chiều” Chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều, cùng sa xuống mặt Tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả không gian nhưng gợi được thời gian bởi nó sử dụng “cánh chim” và “bóng chiều”, vốn là những hình tượng thẩm mỹ để tả hoàng hôn trong thơ ca cổ điển.

Những bài văn mẫu cảm nhận về bài thơ Tràng giang
Những bài văn mẫu cảm nhận về bài thơ Tràng giang

Bài 3

Trong phong trào Thơ mới ta có thể bắt gặp nhiều cái tên nổi tiếng như Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử… Mỗi người đều mang những phong cách sáng tác riêng của mình để thổi hồn vào tác phẩm. Và Huy Cận cũng thế, đến với phong trào Thơ mới, các tác tác phẩm của ông trong giai đoạn trước 1945 đều mang những nỗi buồn miên man, sầu bi của nhà thơ. Đặc biệt qua khổ 3 bài Tràng giang, ta lại càng thấy rõ hơn tư tưởng này của tác giả.

Nhà thơ Huy Cận từng chia sẻ: “Trước cách mạng, tôi thường có thú vui vào chiều chủ nhật hàng tuần đi lên vùng đê Chèm để ngoạn cảnh sông Hồng. Phong cảnh sông nước đẹp gợi cho tôi nhiều cảm xúc”. Đứng trước khung cảnh thiên nhiên mênh mông, bát ngát đó, nhà thơ đã gửi gắm nỗi niềm tâm sự sâu kín của mình vào bài thơ. Tiếp nối hai khổ thơ đầu thì khổ thơ thứ ba tiếp tục lột tả vẻ đẹp trầm buồn của thiên nhiên:

“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang.

Không cầu gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”.

Hai câu thơ tiếp theo khắc hoạ khung cảnh mênh mông của sông nước:

“Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật”

Sự hiu quạnh, vắng lặng của không gian dường như được nhân thêm nhiều lần bởi sự phủ định hai lần liên tiếp: “không một chuyến đò ngang”, “không cầu”. Con đò ngang chỉ sự giao lưu, kết nối của con người hai bên bờ sông với nhau nhưng cả dòng nước mênh mông lại chẳng có chuyến đò ngang nào cả. Vậy chiếc cầu bắc qua sông thì sao? Không đò, không có cả cầu dù tác giả đã phóng tầm mắt nhìn ra xa cũng không thấy biểu hiện của sự giao nhau giữa hai bờ sông thông qua cây cầu.

Có thể thấy đôi bờ đều là những nơi hoang vắng, ít người qua lại, hai bờ sông như bị chia cắt làm đôi kéo dài tới vô tận. Nó như hai thế giới song song, không gì có thể ảnh hưởng tới bên còn lại, không một chút “niềm thân mật” nào cả. Tất cả chỉ có thiên nhiên với thiên nhiên chứ không có dấu hiệu của con người, của sự sống nào khác.

Đứng trước tình cảnh ấy người thi sĩ giống như càng thấy buồn thương, thiếu vắng đi sức sống. Nhà thơ Huy Cận như cảm thấy bản thân là một thực thể sống duy nhất trơ trọi giữa thiên nhiên nên càng cảm thấy khao khát được gắn bó với con người, với quê hương như hai câu thơ trong bài Đảo:

“Thuyền không giao nối đây qua đó

Vạn thuở chờ mong một cánh buồm”.

Có lẽ câu cuối khổ ba giống như một lời than thở của người thi sĩ trước khung cảnh thiên nhiên:

“Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”

Một vẻ đẹp tĩnh lặng, đượm buồn của thiên nhiên, sự tiếp nối của tự nhiên “bờ xanh” với “bãi vàng” hai tông màu tươi sáng nhưng lại kết hợp với từ “lặng lẽ” khiến nó không thể xua đi cái không khí trầm lắng, buồn man mác của dòng sông. Tất cả như lặng lẽ không có lấy một tiếng động nào cả. Đằng sau vẻ đẹp ấy chính là một tâm hồn trăn trở, đau đáu trước cảnh nước mất nhà tan, lo lắng cho tương lai của con người trong hiện tại và tương lai gần không biết trôi dạt về đâu.

Tóm lại, qua khổ 3 bài thơ Tràng giang ta, Huy Cận đã tái hiện khung cảnh trầm buồn, mênh mang của vùng sông nước rộng lớn. Đồng thời bày tỏ tâm trạng của mình khi đứng trước thiên nhiên và trong bối cảnh đất nước bị xâm lược. Dù thời gian trôi qua đã lâu nhưng bài thơ vẫn để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng độc giả và được các thế hệ sau này đón nhận. Đó chính là thành công của người thi sĩ với đứa con tinh thần của mình.

Những bài văn mẫu cảm nhận về bài thơ Tràng giang
Những bài văn mẫu cảm nhận về bài thơ Tràng giang

Xem thêm:

Trên đây là những bài văn mẫu cảm nhận bài Tràng giang của Huy Cận. Hy vọng bài viết vừa rồi sẽ giúp các bạn có được những kiến thức bổ ích phục vụ cho việc học tập. Nếu có bất cứ đóng góp hay thắc mắc về chủ đề cảm nhận bài thơ Tràng giang, đừng quên để lại nhận xét bên dưới nhé. Chúc bạn luôn học tốt!.

Bạn thấy bài viết này hữu ích chứ?

Hãy chọn vào ngôi sao để đánh giá bài viết

Đánh giá trung bình 0 / 5. Lượt đánh giá 0

Hãy là người đầu tiên đánh giá bài viết

Hãy để lại bình luận

Xem nhiều

Bài tin liên quan

Mạng 5G là gì? Mạng 5G khi nào phủ sóng toàn quốc?

Mạng 5G là bước tiến vượt bậc trong công...

Mạng 4G là gì? Có nhanh không? 4G và LTE khác gì nhau?

Mạng 4G, ra đời vào năm 2010, là thế...

3G là gì? Tốc độ của mạng 3G là bao nhiêu? Khác gì với 2G và 4G

Mạng 3G, ra đời vào đầu những năm 2000,...

Mạng 2G là gì? Tại sao cắt mạng 2G? Khi nào cắt?

Mạng 2G, công nghệ di động phổ biến từ...